Tên di sản : Khu di tích quận công Lê Thì Hiến và các bia tướng họ Lê Thì
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 2015/ QĐ – BTBVH
Giới thiệu
Quần thể di tích là quê hương, nơi an nghỉ cuối cùng của các danh tướng thời Lê Trung Hưng từ giữa thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 18.
Khu vực di tích kéo dài 800m tạo thành 2 vùng, 2 khu vực
Khu vực 1: Khu từ
Khu từ nằm gọn trong thắt cô bầu của sông Lê, sông chảy từ đây qua Bắc, sang Đông, vòng lên Nam rồi đổ về Đông. Khu vực Cô Bầu có diện tích 70.000m2, di tích trải rộng trong 15.000m2 bao gồm tường bao, Nghinh môn, Đền thờ, bia, lăng mộ.
Đền thờ: là ngôi nhà 5 gian hướng đông, dài 15 m, rộng 7m, diện tích 105m2, khu sân đền dài 30m, rộng 40m. Nghinh môn là một ngôi nhà 1 gian rộng vuông cao 3 lớp mái có 6 cột to. Hiện còn nền móng khu vực Đền và Nghinh môn. Sau Nghinh Môn và trước đền, trước lăng là Bia.
Bia Lê Thì Hiến.
Bia là một khối đá liền được chạm trổ 2 mặt gắn liền với mái theo hình Parapôn. Bia và mái che cao 2,12m; ngang 1,82m, dày 1,10m, có khối lượng toàn bộ tấm bia nặng khoảng 10 tấn. Đế bia là một khối đá liền ngang. Bia chạm trổ 2 mặt theo 2 hướng Tây – Đông. Mặt trước hướng Tây quay về phía từ đường. Hai mặt Tây Đông được chạm trổ hoa văn tinh xảo, hoa văn uyển chuyển họa tiết trang trí hoa cúc và hoa sen, dây leo chuyển tiếp vòng tròn theo hình Pa ra pôn, có gờ diềm rộng 0,20m. Hai mặt giống nhau, trang trí lớp trong phần trán bia là hình họa tiết lưỡng long chầu Nhật tiếp đến dưới mặt trước đề: Lê Lênh Công, khắc sâu 0,82m. Mặt sau đề: Sự nghiệp Bi, khắc sâu 0,01m. Nội dung văn bia ngắn gọn, đầy đủ, nói lên sự nghiệp và công danh của Lê Lệnh Công. Bia được dựng năm Định Tỵ, triều Lê Hy Tông (1676 – 1705) niên hiệu Vĩnh Trị năm thứ 2 (1677).
Lăng mộ.
Lăng Lê Thì Hiến xây lệch về phía Bắc của đền và Bia. Lăng là một công trình kiến trúc 5 gian ngang hướng Nam và 7 gian dọc tạo thành kiến trúc chữ Đinh, bao trùm lên Hương án tiền và Chính Tẩm.
Hương án Tiền là một khối đá liền với kích thước dài 1,16m, rộng 0,68m, cao 1,33m. Trên mặt phẳng đục 4 lỗ tròn 4 góc có đường kính 0,15m làm nơi đặt ��ồ thờ chân nến, lọ hoa.
Trang trí hoa văn: Trán Hương án là một đường diềm trang trí cao 0,10m, vòng quanh 4 mặt có điểm hội tụ phía trước là một đóa sen hoa cách điệu hài hòa, trên nở xòe, dưới thắt lại theo hình đài hoa. Mặt là một đường diềm xoi kép lạm cạnh vòng quanh 4 mặt, đường gờ tròn ra rộng hơn mặt Hương án. Tiếp đến đường g��� hình răng cưa lá cúc cách điệu nối tiếp nhau, lượn vòng 4 mặt chính giữa hương án thắt lại.
Hương Án chính: Là một khối đá liền, dài 1,15m, rộng 0,73m, cao 1,15m. Trên mặt chạm 2 ô tròn ở 2 mép ngang Hương án sâu 0,03m. Mặt tràn ra so với thân là lớp mặt gờ đầy 0,10m. Tiếp đến là hoa văn trang trí cánh hoa sen cách điệu lượn 4 mặt trên nở ra, dưới thu lại, chính giữa trước là cánh hoa kép ở giữa hình lá đề, hình nổ chữ thọ hóa, tiếp 3 lớp chỉ là đến lớp gờ nổi bằng mặt chạm cạnh lượn 4 mặt, trổ chìm nổi lên 4 chữ “Phú, Thọ, Khang, Minh” nghĩa là giàu sang thịnh vượng sống lâu, yên ổn
Sập: là 2 khối đá liền ghéo vào sát nhau, mỗi tấm có kích thước ngang 2,84m, sâu 1,85m trang trí theo 4 lớp. Mặt là mặt phẳng không trang trí. Bao lấy mặt là một gờ liệng tròn nổi 5 cm rộng 0,10m, có chỉ kép, tinh vi. Tiếp đến lớp trang trí răng cưa xen lẫn hình ô vuông. Lớp tiếp theo là một hoa văn hình ống. Phần tiếp giáp là đến chân cuốn chân quỳ, hoa cúc có 3 lớp, lớp ngoài 12 cánh, lớp trong có 6 cánh, ở giữa là đài hoa. Chân sập hoa văn nối cuộn vào chéo vào nhau phía trên là hình hoa lá cách điệu, kiều vân hóa long.
Hai bên của Hương Án bài trí: Ngoài cùng phía trước là 2 ông voi quỳ phục chầu, vòi cuộn tròn mắt sáng, cổ đeo vòng ngọc, hai bên có hai quả chuông nhỏ, đầu ngước lên, tai ép sát đầu để đợi lệnh, voi không có bành.
Tóm lại, khu vực thứ nhất Khu Từ là nơi xây dựng trước Khu Từ Vũ. Nơi thờ tự và tưởng niệm ông Lê Thời Hiến – Danh tướng thời Lê Thần Tông có nhiều công lao với dân với nước được thăng chức Hào quận công rồi thăng lên Hữu Đô Đốc. Sau khi mất được Tăng Thái Tể Thụy là Minh Trí sau truy phong Đại Vương Tự Phúc Thần các con ông đã nối nghiệp ông là Thì Kinh, Thì Liêu, Thì Hải là những danh tướng đương thời. Sau khi ông mất Triều đình cho con cháu và dòng họ lập đền thờ Bia mộ và Lăng tẩm thờ ông tại quê hương.
Từ Vũ:
Từ Vũ là nơi thờ Lê Thì Hải, danh tướng thời Lê Gia Tông và Hy Tông con Hào Quận Công Lê Thì Hiến, em Trình hầu Lế Thì Kinh.
Khu vực đền thờ gồm 3 ngôi nhà. Ngôi chính diện thờ Lê Thì Hải. Ngôi bên tả thờ bố mẹ ông, ngôi hữu thờ các vị. Toàn bộ khu vực Từ Vũ 5000m2, xung quanh có tường xây bao quanh, có 2 tấm bia đối diện nhau theo hướng Đông – Tây cách nhau 45m. Phía Bắc là khu vực đền quay mặt theo hướng Nam.
Bia Lê tướng công sự nghiệp huân danh – Bia dựng năm 1716, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 12, ca ngợi công đức và tài thao lược của danh tướng Lê Thì Hải. Bia hướng Đông – Tây, bia viết 2 mặt. Bia chia làm 3 phần: mũ bia, thân bia và đế bia. Ba khối kích thước khác nhau, trang trí khác nhau, nhưng rất hài hòa tạo thành một khối vững chắc qua gần 300 năm vẫn còn vững chãi, chữ có bị đục 1 vài chỗ, hoa văn còn nguyên vẹn.
Bia thứ 2 ở khu vực Từ Vũ:
Bia: Vạn thế Phụng tự Bi ký. Bia hướng Tây, cách bia thứ 2 là 45m. Bia chia làm 2 khuông:
Mặt trước bên trái (khuông đầu): “Vạn thế phụng sự bi ký”. Bia và bài minh ghi về phụng thờ muôn đời, khuông này chiếm ½ mặt trước, có chiều dài 2,5m, gồm 54 hàng chữ, hàng nhiều nhất là 35 chữ.
Khuông thứ hai mặt trước bên phải ghi số điền thưởng và tiền ơn huệ chiếm ½ mặt trước và toàn bộ mặt sau, chữ viết nhỏ, tổng số 289 hàng chữ, hàng nhiều nhất 62, 65 chữ. Bia dựng triều Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh năm thứ 6 (1710). Bia được chia làm 3 phần: mũ, thân và đế bia.
Mũ bia được cấu tạo 5 khối ghép lại hình thành mái che tràn ra khỏi thân mỗi cạnh 0,155m. Thân bia cao 1,65m, dài 5m, dày 0,31m, thân bia gồm 6 tấm đá có độ cao giống nhau và độ dày khác nhau, hai tấm 2 đầu có độ dày hoa văn giống nhau, dày hơn tấm thứ 2 và thứ 5. Phần đế bia bao gồm 17 khối đá cao, rộng bằng nhau ghép lạ, có chiều dài 5,84m, mặt đế tạo thành hai lớp cấp. Hiện tại bia còn nguyên, góc Bắc bị sạt bị lún lệch 2cm ở 2 tấm cuối.